Sản phẩm Vải Thiều Lục Ngạn (LOLO) này được sản xuất bởi chuỗi cung ứng trên nền tảng tiêu chuẩn OTAS
Luc Ngan Fresh Lychee (LOLO Lychee) is produced and processed by Supply Chain –Blockchain under OTAS Standards
OTAS-Agrotrade-VIAEP-HTX Hong Giang
Xác thực theo Tiêu chuẩn OTAS phù hơp với yêu cầu nhập khẩu của Úc, Malaysia và Châu Âu
Verified under OTAS standards in compliance with importing regulations of Australia, Malaysia and Europe countries
Lợi ích của vải thiều Lục Ngạn Bắc Giang. Tên Quốc Tế : LOLO nghĩa là Long Love : dịch sang tiếng Việt là Tình Yêu Dài Lâu
Các nhà khoa học trên thế giới đang nghiên cứu công năng của trái vải thiều Lục Ngạn Việt Nam. Một đặc tính đặc biệt của Vải Thiều Lục Ngạn là thổ nhưỡng, nước, và môi trường đặc biệt mà thiên nhiên mang tặng một trái vải đặc biệt và có rất nhiều tính năng và tác dụng giúp tăng cường sinh lý cho con người (nhóm nghiên cứu LOLO quốc tế đang phối hợp cùng các nhà khoa học nghiên cứu tác dụng này)
Vải là loại trái cây đặc biệt và có tác dụng tuyệt vời đối với sức khoẻ của chúng ta, bao gồm khả năng tăng cường hệ miễn dịch, ngăn ngừa ung thư, tốt cho tiêu hoá, giúp xương chắc khoẻ, điều hoà huyết áp và phòng tránh được virut có hại, cải thiện lưu thông máu, hỗ trợ giảm cân, bảo vệ làn da và tối ưu hoá các hoạt động trao đổi chất.
Vải có tên khoa học là Litchi chinensis, hay được gọi là lệ chi, thuộc họ Bồ hòn, nhưng là loài độc nhất trong họ, nghĩa là vải là loại trái cây có một không hai. Vải có nguồn gốc tại Trung Quốc và được trồng ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, được dùng nhiều là làm các món đồ uống, món tráng miệng vì có hương vị tự nhiên đặc biệt không bị lẫn với các vị trái cây khác. Ở hầu hết các quốc gia châu Á, Vải được coi là món tráng miệng và đang dần dần thâm nhập vào thị trường phương Tây, nhất là trong các nhà hàng sang trọng.
Từ xưa, Vải được trồng từ hơn 4000 nghìn năm trước ở Trung Quốc, được coi là tuyệt phẩm để dâng vua. Ngày nay, loại trái cây này được trồng phổ biến ở khu vực Đông Nam Á, Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ và một số vùng ở Nam Phi.
Vải có cùi dày và mọng, cùi trắng, vỏ đỏ. Các nước trên thế giới đánh giá cao vải thiều vì các giá trị dinh dưỡng và y học mà nó đem lại cho sức khoẻ con người,. Vải là loại quả giàu dinh dưỡng và các thành phần hữu cơ. Tuy nhiên, các thành phần dinh dưỡng trong quả vải sấy còn nhiều hơn vải tươi, vì thế nếu bạn muốn ăn vải vì lý do dinh dưỡng, hãy quên đi hương vị ngọt ngào của vải tươi và chờ ăn vải sấy. Hầu hết các vitamin và khoáng chất có trong quả vải đều tăng lên gấp đôi khi quả vải được sấy khô.
Quả vải có rất nhiều lợi ích cho sức khoẻ do có chứa rất nhiều các loại vitamin, khoáng chất, dinh dưỡng trong trái cây bao gồm vitamin C, Vitamin B6, niacin có tác dụng loại bỏ chứng dị ứng, mẩn ngứa, riboflavin cung cấp đường cho cơ thể, folate giúp lưu thông máu não, các khoáng chất vi lượng khác như đồng, kali, phốt pho, magiê và man-gan. Hơn nữa, vải thiều là một nguồn tuyệt vời của chất xơ, protein, và một nguồn proanthocyanidins dồi dào có tác dụng cô lập các khối u và ngăn chặn các tế bào ung thư phân chia, các hợp chất poly-phenolic có tác dụng kháng khuẩn, chống vi trùng.
Hệ tiêu hoá: Lượng chất xơ đáng kể trong quả vải và trong hầu hết các loại rau quả khác có tác dụng rất tốt cho hệ tiêu hoá. Chất xơ cũng có lợi cho nhu động ruột, duy trì hệ thống tiêu hóa khỏe mạnh. Đồng thời, chất xơ cũng có tác dụng kích thích dạ dày và dịch tiêu hóa, vì vậy hấp thu dinh dưỡng hiệu quả hơn. Điều này có thể làm giảm táo bón và các rối loạn tiêu hóa khác.
Có lẽ chất dinh dưỡng quan trọng nhất trong vải thiều là vitamin C, và trái cây này có hơn 100% nhu cầu hàng ngày của axit ascorbic (Vitamin C) trong một khẩu phần ăn hàng ngày. Nhờ đó, hệ miễn dịch của bạn được thúc đẩy, vì vitamin C là một hợp chất chống oxy hóa quan trọng và kích thích sự hoạt động của các tế bào bạch cầu, tuyến phòng thủ chính của hệ thống miễn dịch trong cơ thể của bạn.
Hệ thống miễn dịch:
Ngăn ngừa ung thư: Các hợp chất polyphenolic và proanthocyanidins tìm thấy trong vải thiều thậm chí còn có tác dụng mạnh hơn cả vitamin C trong việc dung hòa các gốc tự do và bảo vệ cơ thể khỏi rất nhiều loại bệnh và các vấn đề phiền não. Gốc tự do là các tác nhân có hại từ sự trao đổi chất của tế bào, có thể gây ra các chứng bệnh ung thư , bệnh tim, rối loạn nhận thức, lão hóa sớm hoặc các chứng bệnh không mong muốn khác. Quả vải là nguồn chứa các hợp chất hữu cơ dồi dào, có thể được dùng làm một phương pháp phòng ngừa đối với nhiều chứng bệnh ung thư khác nhau.
Khả năng kháng virus: Các proanthocyanidins trong vải thiều đã được nghiên cứu rộng rãi và cũng đã được chứng minh về khả năng kháng virus . Litchitannin A2 là một hợp chất được tìm thấy trong vải thiều, được kết nối chặt chẽ với nhau để ngăn chặn sự lây lan hay bùng nổ của virus, bao gồm virus herpes simplex virus (virut gây mụn rộp ở da) và virus coxsackie (là nguyên nhân của một nhóm bệnh bao gồm viêm họng, tay chân miệng, viêm tim).
Điêu hoà huyết áp: Vải thiều là loại trái cây rất giàu Potassium (kali) là một loại khoáng tố cần thiết mà cơ thể cần để kiểm soát huyết áp. Hiệp hội Tim mạch Mỹ đề nghị rằng những người có huyết áp cao nên ăn những loại thực phẩm giàu kali như trái vải. Một chén vải có thể cung cấp cho cơ thể khoảng 325 mg kali, tức khoảng 9% lượng kali được cần thiết cho cơ thể mỗi ngày. Bên cạnh đó, trái vải là một loại trái cây có hàm lượng sodium (natri) vô cùng thấp, vì vậy đây là loại thức ăn lý tưởng cho việc điều hòa, kiểm soát huyết áp. Cân bằng dịch là một phần không thể thiếu không chỉ trong các chức năng trao đổi chất, mà còn có tác dụng điều hoà huyết áp. Kali được coi là một loại thuốc giãn mạch, có nghĩa là nó làm giảm sự co thắt các mạch máu và động mạch, do đó làm giảm sự căng thẳng trong hệ tim mạch. Nồng độ kali trong vải thiều khô cao hơn gấp 3 lần hàm lượng trong vải tươi.
Giảm nếp nhăn và tàn nhang. Oligonol là một polyphenol được tìm thấy nhiều trong quả vải. Oligonol có nhiều chất chống oxy hóa và chống lại hoạt động của virus cúm. Chất này cũng giúp cải thiện lưu thông máu, giảm cân và bảo vệ da khỏi tia cực tím. Oligonol giúp giảm mỡ, tăng tuần hoàn máu, giảm mệt mỏi khi tập thể dục, tăng khả năng chịu đựng và làm giảm nếp nhăn, tàn nhang
Tuần hoàn máu: Đồng là một khoáng chất thiết yếu được tìm thấy với số lượng đáng kể trong vải thiều, bên cạnh sắt, đồng cũng là một phần không thể thiếu của sự hình thành hồng cầu. Do đó, hàm lượng đồng trong vải thiều có thể thúc đẩy lưu thông máu và tăng oxy hóa của các cơ quan và tế bào .
Một số chú ý nên biết: Do vải có chứa một lượng đường khá nhiều nên các bệnh nhân tiểu đường nên cẩn thận khi ăn vải vì nó có thể mất cân bằng lượng đường trong máu. Ngoài ra , vải được coi là một thực phẩm " nóng " , có nghĩa là đôi khi vải thiều có thể mất cân bằng dinh dưỡng trong cơ thể. Ăn quá nhiều vải có thể gây kích thích chảy máu mũi, sốt hoặc đau họng. Tuy nhiên,việc ăn vải ở mức độ vừa phải hoàn toàn không gây hại đến sức khoẻ.
Lịch sử phát triển của Vải Thiều - Lục Ngạn - Bắc Giang
1. Giai đoạn 1960 – 1982
Thời kỳ này được coi là giai đoạn nghiên cứu thực nghiệm, bước đầu xác định được cây vải thiều là cây trồng phù hợp với điều kiện tự nhiên, khí hậu và đất đai của huyện Lục Ngạn.
Trước năm 1982, cơ cấu kinh tế của huyện được xác định là cơ cấu nông-lâm-công nghiệp. Trong nông nghiệp, tập trung phát triển lúa và màu lương thực, cây công nghiệp ngắn ngày: đậu tương, lạc, mía ở các vùng đất thấp và được quan tâm chỉ đạo như một nhiệm vụ trong tâm trong suốt giai đoạn này. Còn cây lâm nghiệp được phát triển ở mọi vùng đất có độ dốc từ 15 độ trở lên. Các loại cây ăn quả chỉ được trồng rất ít trong vườn các hộ gia đình,
Từ những năm 1970, cây đậu tương ở Lục Ngạn có tốc độ phát triển rất nhanh cả về diện tích và sản lượng. Các giống đậu tương có năng suất cao, phẩm chất tốt được đưa vào trồng tại địa phương. Việc đưa cây đậu tương xuống trồng ở các chân ruộng một vụ lúa là sự sáng tạo của nhân dân các dân tộc trong huyện. Diện tích trồng đậu tương tăng từ 1261 ha năm 1976 lên 2214 ha năm 1982. Do áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nên năng suất ngày càng tăng, sản lượng đậu tương tăng từ 370 tấn năm 1976 lên 1164 năm 1982. Với kết quả đó, huyện Lục Ngạn đã trở thành một điển hình của miền núi phía Bắc về trồng đậu tương và kỹ thuật đưa đậu tương xuống chân ruộng cấy lúa 1 vụ, phụ thuộc nước trời không ăn chắc đã góp phần đáng kể làm tăng hệ số sử dụng đất, tăng sản phẩm cho xã hội và cải tạo đất trồng trọt.
Cây mía một thời đã được phát triển mạnh, năm cao nhất đã trồng 700 ha mía. Sản phẩm đường thủ công của huyện đã từng nổi tiếng, được nhiều nơi biết đến với tên gọi “đường Chũ”. Để giúp nhân dân chế biến và tiêu thụ sản phẩm mía đường, được sự giúp đỡ của UBND tỉnh Hà Bắc và tỉnh Tây Ninh, huyện đã đầu tư xây dựng dây chuyền ép mía và chế biến đường tinh với công suất 200 tấn/ngày. Ngoài ra Nông trường Quốc doanh Lục Ngạn (thuộc tổng công ty Rau quả Trung ương) cũng có một nhà máy đường cồn đang hoạt động, làm nhiệm vụ chế biến cây mía. Đồng thời, các lò đường thủ công trong nhân dân cũng được phát triển mạnh. Cây mía cũng ít nhiều tạo công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân một số địa phương trong huyện.
Vào cuối những năm 70 đầu những năm 80, nhân dân Lục Ngạn tập trung cao độ cho việc thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn do Đảng đặt ra, đặc biệt là chương trình “lương thực – thực phẩm”. Huyện đã tập trung mở rộng diện tích, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, vì vậy trong sản xuất lương thực đã thu được một số kết quả khá. Tổng sản lượng lương thực quy thóc năm 1982 đạt 35.780 tấn (trong đó màu quy thóc 17.604 tấn, chiếm tỷ trọng ~50%).
Để thực hiện chương trình “lương thực – thực phẩm”, huyện đã tập trung làm thủy lợi với khẩu hiệu “Thắt lưng buộc bụng, ăn cháo ăn khoai, làm thủy lợi để con cháu sung sương muôn đời”. Từ phong trào này, xã Quý Sơn đã trở thành lá cờ đầu của cả nước về làm thủy lợi nhỏ và được Nhà nước tặng thưởng Huân chương lao động hạng Ba. Nhân dân các dân tộc trong huyện đã đào đắp được 190 hồ đập nhỏ và 7 công trình trung thủy nông. Từ chỗ không cấy được lúa vụ chiêm xuân, đến 1982 diện tích lúa chiêm được tưới nước cho 30% diện tích lúa cả năm. Lục Ngạn trở thành huyện có phong trào mạnh về làm thủy lợi và cải tạo đất của tỉnh.
Một thời gian dài, do quan niệm chưa đầy đủ về ăn ninh lương thực và giải quyết lương thực tại chỗ, nên huyện tập trung mọi nguồn lực để phát triển sản xuất lương thực. Diện tích lúa nước có hạn, năm 1982 có 8.860 ha. Để tăng sản lượng lương thực, không còn cách nào khác ngoài việc tăng diện tích cây màu lương thực bằng cách khai phá đất đồi, đất rừng làm nương rẫy, vì vậy diện tích cây màu lương thực năm 1982 lên đến 9.600 ha trong đó có 3.370 ha khoai lang, 2.230 ha ngô, 4.000 ha sắn (năm có diện tích sắn cao nhất đạt 5.689 ha là năm 1978).
Thế mạnh của huyện được xác định trong chăn nuôi là phát triển chăn nuôi trâu, bò và lợn, nhằm cung cấp sức kéo và đáp ứng nhu cầu thực phẩm trong và ngoài tỉnh. Với định hướng đó, đến năm 1982 đàn trâu cày kéo trong huyện đã lên tới 23.837 con, đàn bò 1.277 con, đàn lợn 33.813 con.
Lâm nghiệp trước năm 1982 tập trung vào việc khai thác gỗ, củi, tre nứa và các sản phẩm từ rừng tự nhiên theo chỉ tiêu khai thác lâm sản được giao trong kế hoạch hằng năm. Kết quả khai thác gỗ hàng năm từ 1.000 – 2.000 m3, củi từ 2.000 3.000 xe, tre, luồng từ 200.000 – 300.000 cây, nứa từ 1,5 triệu cây. Việc trồng rừng phủ xanh đất trống đồi trọc cũng được quan tâm chỉ đạo và trở thành phong trào mạnh mẽ trong nhân dân. Nhằm mục tiêu của trồng rừng là phủ xanh đất trống đồi núi trọc, sản xuất gỗ hàng hóa cung cấp cho nhu cầu làm gỗ trụ mỏ và đáp ứng nhu cầu sử dụng của nhân dân.
Với lâm trường có hàng ngàn công nhân, các đội của Lâm trường đã có mặt ở hầu hết các xã trong huyện để trồng thông, bạch đàn. Phong trào trồng bạch đàn phát triển rất mạnh trong các xã, thông bản trong toàn huyện. Từ đồi núi đến ven các trục đường giao thông, cơ quan, trường học, bệnh viện, đơn vị quân đội đều được trồng bạch đàn, xà cừ hoặc thông. Đến năm 1982 diện tích trồng rừng khu vực quốc doanh là 5.399 ha, khu vực nhân dân là 4.100 ha, trong đó đất trồng rừng khu vực nhân dân hầu hết là đất đồi thấp, cũng là phần diện tích đất đai có khả năng lớn về trồng vải thiều.
Trải qua thời gian dài, nhân dân các dân tộc đã tìm tòi, thử nghiệm trồng nhiều loại cây, nhiều mô hình kinh tế khác nhau. Trong sự tìm tòi sáng tạo đó đã xuất hiện nhiều điển hình tiên tiến xuất sắc: đậu tương Tân Mộc, thủy lợi Quý Sơn, trông cây nhân dân Thanh Hải, sản xuất chè, chuối Tân Quang, mía đường Tân Lập…Kết quả của quá trình sản xuất, các sản phẩm trên đã góp phần cải thiện đáng kể đời sống nhân dân so với thời gian trước đó.
Tuy nhiên, nếu xét một cách toàn diện thì việc trồng các loại cây trên đây hiệu quả kinh tế đều không cao. Do đầu tư lao động sống và lao động vật chất hóa cao, nên giá trị thặng dư thấp và người dân lao động vô cùng cực nhọc mà đời sống không được nâng cao. Đến năm 1982 toàn hộ có 70% số hộ nghèo đói, số còn lại chưa được gọi là giàu có mà chỉ đủ ăn ở mức đạm bạc. Mặt khác, do khai thác quá mức tài nguyên rừng để được mở rộng diện tích gieo trồng các loại cây màu lương thực cùng với tập quán canh tác theo kiểu “du canh” nên diện tích đất được che phủ giảm nhanh chóng, tài nguyên đất đai ngày càng suy kiệt nghiêm trọng.
Nguyên nhân của tình trạng nêu trên, trước hết là do chưa xác định được đúng hướng sản xuất, chưa tìm được chủng loại và cây trồng phù hợp. Mặt khác, do ảnh hưởng của cơ chế cũ, nên người dân chưa chủ động trong đầu tư phát triển sản xuất. Việc tổ chức, lựa chọn các loại cây trồng chủ yếu tuân theo kế hoạch rót từ trên xuống, sản xuất không gắn với thị trường. Nhà nước chưa có các chính sách thích hợp để thúc đẩy sản xuất, nhất là các chương trình về quản lý đất đai, khai thác nguồn vốn, về tiêu thụ sản phẩm và lưu thông hàng hóa.
Trong thời gian này, Lục Ngạn được giao nhiệm vụ tiếp nhận dân của một số tỉnh đồng bằng lên xây dựng kinh tế mới. Trong trăm nỗi lo toan cuộc sống mới, trong hành trang của họ đều có giống cây, con đem từ quê như một kỷ vật. Vải thiều và cam ThaLúc đầu, các loại cây đặc sản trên chưa được phát triển rộng rãi, chủ yếu trồng trong vườn, xung quanh nhà để cải thiện, nhưng cũng có một số gia đình như cụ Trình, cụ Chiểu (thị trấn Chũ) đã mạnh dạn trồng từ 30-60 cây từ đầu những năm 60, sau 10-15 năm đã cho năng suất ổn định. Người ta nhận thấy cây vải thiều trồng tại Lục Ngạn phát triển tốt, chất lượng cao không kém vải Thanh Hà, sản phẩm sản xuất ra được thị trường chấp nhận. Từ những năm 1980 các nhà máy đồ hộp ở Hà Nội, Vĩnh Phúc, Sơn Tây đã đến Lục Ngạn mua vải thiều để đóng hộp xuất khẩu. Ngoài ra vải thiều tươi còn được tiêu thụ tại các thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam.
Tuy nhiên sản lượng vải tươi lúc đó chưa nhiều. Do đặc điểm nền kinh tế nước ta bấy giờ, việc mua bán trao đổi hàng hóa thường lấy thóc làm tiêu chuẩn so sánh, để xác định các tỷ lệ trao đổi thích hợp, khi đó nhà máy đổi cho dân 1,2 kg đạm Urê lấy 1kg vải thiều tươi và 1 kg Urê = 3 kg thóc, như vậy 1 kg vải thiều tương đương với 3,6 kg thóc. Thực tế thấy rằng quan hệ đó cơ bản được ổn định cho đến ngày nay. Song cũng có lúc quan hệ trên thay đổi bất thường, giá trị bán 1 kg vải thiều tươi có thể mua được 10 kg thóc.
Từ thực tế trên, đã khiến người dân liên tưởng, so sánh hiệu quả của việc trồng vải thiều với các loại cây trồng khác như sắn, mía, đậu tương, bạch đàn, chè, thậm chí cả lúa. Nhận thấy rằng trồng vải thiều đem lại lợi ích hơn hẳn các loại cây khác. Chính từ đó, phong trào trồng vải thiều trong nhân dân bắt đầu phát triển một cách tự phát. Đến năm 1982 toàn huyện đã trồng 42 ha vải thiều, sản lượng ước tính đạt 100 tấn. Như vậy, trong suốt thời gian dài Đảng bộ, nhân dân các dân tộc trong huyện Lục Ngạn mất nhiều công sức tìm tòi, thử nghiệm và bước đầu đã xác định được vây vải thiều là cây trồng thích hợp với điều kiện đất đai, khí hậu của huyện. Sản phẩm sản xuất ra đáp ứng được nhu cầu của thị trường.
2. Giai đoạn 1982 – 1998
Đây là giai đoạn được coi là thời kỳ chuyển dịch một cách toàn diện và sâu sắc cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, theo hướng tăng nhân diện tích cây vải thiều, giảm dần diện tích cây màu lương thực và cây nông nghiệp ngắn ngày.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá, tổng kết đầy đủ tính khoa học và thực tiễn của việc trồng cây ăn quả trong thời kỳ 1960 – 1982, đã khẳng định rõ vai trò của cây vải thiều trong nền kinh tế huyện nhà. Huyện ủy – UBND huyện Lục Ngạn đã đi tới một quyết sách có tính quyết định là phát động phong trào trồng vải thiều sâu rộng trong nhân dân. Một quyết tâm chiến lược được đề ra là “di dời kinh đô vải thiều từ Thanh Hà lên Lục Ngạn”
nh Hà – Hải Dương, nhãn lồng Hưng Yên, hồng Nhân Hậu và chuối tiêu Lý Nhân – Hà Nam đã lần lượt được đem trồng tại Lục Ngạn.
Mặc dù đã có sự chỉ đạo chặt chẽ như vậy, nhưng trong thời gian gần 10 năm đầu (1982 – 1990) diện tích cây vải thiều tăng rất chậm. Nguyên nhân của sự chậm trễ đó là do thiếu các điều kiện để phát triển sản xuất, nhà nước chưa có chính sách giao quyền sử dụng đất lâu dài đến hộ, các đối tượng cho vay của các tổ chức tín dụng lúc đó là HTX và các doanh nghiệp, còn các hộ nông dân chưa được vay vốn để sản xuất kinh doanh, thị tường tiêu thụ mới chỉ tập trung vào một số nhà máy sản xuất đồ hộp xuất khẩu, sức mua hàng năm chỉ ở mức 150 – 200 tấn. Ngoài ra vải thiều tươi còn được tiêu thụ tại Hà Nội, Hồ Chí Minh và một số tỉnh thành phía Nam với số lượng hạn chế. Mặc khác, do cơ chế chính sách của Nhà nước lúc bấy giờ chưa thực sự có tác dụng thúc đẩy lưu thông hàng hóa, càng làm khó khăn hơn cho việc tiêu thụ sản phẩm vải thiều cho nông dân.
Vào cuối những năm 1980 – 1998, dưới tác động tích cực của các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế. Cây vải thiều đã hội tụ đủ các điều kiện để phát triển. Nhà nước đã có chính sách giao quyền sử dụng đất lâu dài đên hộ nông dân. Trong thời gian này, UBND huyện đã giao 23.000 ha đất trống đồi núi trọc cho các hộ. Chính sách tín dụng hướng mạnh vào việc đầu tư cho sản xuất, các hộ nông dân được vay vốn để sản xuất kinh doanh. Song quan trọng hơn là thị trường tiêu thụ nông sản được mở rộng, cùng với thị trường tiêu thụ nông sản được mở rộng, cùng với thị trường trong nước vải thiều còn được bán qua Trung Quốc với số lượng lớn.
Tất cả các yếu tố trên đã tạo điều kiện thuận lợi cho cây ăn quả nói chung và cây vải thiều nói riêng phát triển với tốc độ nhanh. Đến cuối năm 1998, toàn huyện đã trồng được 10.800 ha cây ăn quả, trong đó 8.000 ha cây vải thiều, diện tích cây trồng các loại cây có giá trị kinh tế thấp như: sắn, ngô, cây công nghiệp ngắn ngày và một phần diện tích cấy lúa 1 vụ không ăn chắc đã được chuyển sang trồng cây vải thiều và các loại vây ăn quả khác.
3. Giai đoạn 1998 đến nay
Là giai đoạn phát triển cây ăn quả theo hướng thâm canh và đa dạng hóa chủng loại cây ăn quả, trong đó chủ lực vẫn là cây vải thiều. Đến 1998, diện tích cây vải thiều tập trung tương đối lớn, khả năng mở rộng diện tích bị hạn chế, vì vậy cần tập trung thâm canh tăng năng suất, nâng cao sản lượng thu hoạch. Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường, việc tập trung sản xuất với quy mô lớn theo hướng độc canh tất yếu sẽ khó tránh khỏi tổn thất, rủi ro trong tiêu thụ sản phẩm, làm giảm hiệu quả của sản xuất kinh doanh và tính bề vững của nền sản xuất dễ bị đe dọa.
Vì vậy huyện đã chủ trương tiếp tục phát triển mạnh cây ăn quả theo hướng thâm canh và đa dạng chủng loại cây ăn quả, lấy cây vải thiều làm chủ lực. Nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường về các loại hoa quả, nâng cao năng suất chất lượng, rải vụ thu hoạch, phát triển việc làm và tạo ra khả năng cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường, làm tăng nhanh sản lượng quả trong điều kiện diện tích cây trồng tăng chậm, hạn chế rủi ro tổn thất cho người làm kinh tế vườn và kinh tế trang trại.
Thời kỳ này, một số loại cây ăn quả mới như hồng không hạt, nhãn lồng, xoài và một số giống vải có thời gian thu hoạch khách nhau cho phép rải vụ như U hồng, lai Thanh Hà và một số giống vải Úc, Trung Quốc, Thái Lan…Các giống vải đó đã và đang được đưa vào trồng tại Lục Ngạn. Với định hướng nêu trên, thời vụ thu hoạch vải của huyện trước đây chỉ có 25-30 ngày, thời vụ thu hoạch quả rộ trong khoảng 10-12 ngày, thời gian này giá vải xuống thấp nhất chỉ bằng 50% lúc đầu vụ và cuối vụ. Đến nay, thời gian thu hoạch có thể kéo dài đến 55-60 ngày và giá vải ở thời kỳ đầu vụ, chính vụ và cuối vụ thu hoạch chênh lệch nhau không lớn. Lợi ích của người sản xuất và tiêu dùng được đảm bảo.
Đến cuối năm 2000, toàn huyện đã trồng được 13.739 ha cây ăn quả, trong đó có 11.235 ha vải thiều, 950 ha hồng, 650 ha nhãn. Sản lượng quả tươi đạt 20.120 tấn, trong đó vải thiều là 17.600 tấn. Cùng với việc tuyên truyền đẩy mạnh phát triển diện tích, các cấp, các ngành còn đặc biệt quan tâm đến việc giúp nhân dân ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất hiệu quả. Nhờ có sự vào cuộc tích cực của các nhà khoa học từ Trung ương đến địa phương, cộng với kinh nghiệm chăm sóc cây vải thiều được đúc kết trong thực tiễn lao động thông minh và sáng tạo của nhân dân nên người dân Lục Ngạn đã thực hiện rất hiệu quả các kỹ thuật như: hạn chế cây vải thiều ra quả cách năm bằng việc bón phân khoa học, đúng thời điểm; sử dụng các biện pháp tỉa cành, tạo tán, khoanh cành; rồi thực hiện phòng trừ sâu bệnh hiệu quả, đặc biệt là cách trị sâu đục cuống quả vải triệt để, đã giúp cho chất lượng quả vải thiều ở Lục Ngạn được nâng cao. Có lẽ hội tụ đủ các yếu tố: điều kiện đất đai, khí hậu mang đặc trưng riêng; sự quan tâm đặc biệt của cấp uỷ đảng, chính quyền và các nhà khoa học; cộng quá trình lao động cần cù, thông minh sáng tạo của nhân dân nên chất lượng quả vải thiều Lục Ngạn mới thơm ngon nổi tiếng không nơi nào sánh kịp: quả vải to đều, chín đỏ đẹp, ăn thơm ngon và ngọt lịm. Thương hiệu vải thiều Lục Ngạn ngày càng nổi tiếng và được khách hàng ở trong, ngoài nước tin dùng, ưa chuộng.
Năm 2005, vải thiều Lục Ngạn đã được Cục sở hữu trí tuệ Việt Nam cấp văn bằng bảo vệ độc quyền sở hữu công nghệ đối với nhãn hiệu hàng hoá tập thể “Vải thiều Lục Ngạn”. Vải thiều Lục Ngạn còn được tôn vinh ở các hội chợ trong nước và được người tiêu dùng bình chọn là sản phẩm nông nghiệp tiêu biểu của cả nước. Thực tế, sản xuất vải thiều đã mang về cho người dân Lục Ngạn hàng trăm tỷ đồng/năm. Tuy nhiên, việc phát triển diện tích vải thiều nhanh ở Lục Ngạn cũng không tránh khỏi một số vùng diện tích vải thiều ở trên đồi cao hoặc ở vùng trũng cây phát triển kém, cho chất lượng và giá trị quả không cao. Để tập trung nâng cao năng suất, sức cạnh tranh và giá trị của sản phẩm vải thiều, những năm gần đây, Huyện ủy – UBND huyện đã tăng cường chỉ đạo cơ quan chuyên môn, tuyên truyền vận động nhân dân tích cực áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào chăm sóc, đồng thời đẩy mạnh mở rộng diện tích sản xuất vải thiều sạch an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP. Cùng đó là việc cơ cấu lại vùng cây ăn quả phù hợp. Theo đó một phần diện tích vải thiều ở trên đồi cao đã được nhân dân trồng thay thế bằng rừng kinh tế; một số diện tích vải thiều ở vùng trũng thấp cũng đã được chuyển đổi sang trồng nhãn lồng và các loại cây ăn quả có múi cho giá trị kinh tế cao như cam đường Canh, bưởi Diễn, cam Vinh…
Đến nay, huyện Lục Ngạn có hơn 22.000 ha cây ăn quả, trong đó diện tích vải thiều còn 17.500 ha, và đã có 9.500 ha vải thiều được người dân sản suất theo tiêu chuẩn VietGAP. Nhờ đẩy mạnh sản xuất vải thiều chất lượng nên giá trị sản phẩm không ngừng được nâng cao. Trong ba năm gần đây, nguồn thu từ vải thiều luôn đạt hơn 1.000 tỷ đồng. Điển hình như năm 2014, sản lượng vải thiều của Lục Ngạn đạt 130.000 tấn, cho giá trị đạt 1.625 tỷ đồng. Như vậy, từ vùng đất nghèo đói xưa kia, nhờ phát triển cây ăn quả, đặc biệt là vải thiều mà bộ mặt nông thôn mới ngày càng khởi sắc.Có thể thấy, sự phát triển nhanh chóng vùng cây ăn quả Lục Ngạn đã tác động làm thay đổi cơ cấu trong nông nghiệp và các thành phần kinh tế nông thôn; mô hình kinh tế trang trại phát triển mạnh mẽ; huyện có đến 4.486 hộ dân có thu nhập từ 100 đến trên 500 triệu đồng/năm từ vải thiều, trong đó 83 hộ có mức thu từ 300 – 500 triệu đồng. Hiện cây vải thiều vẫn được xác định là cây thế mạnh chủ lực trong tập đoàn cây ăn quả của địa phương.
Story at-a-glance
· Lychees are rich in antioxidant vitamin C, with more than 100 percent of the recommended daily amount of vitamin C in one cup.
· Lychees have one of the highest concentrations of polyphenols among fruits, including rutin, a bioflavonoid known to strengthen blood vessels
· Certain compounds in lychee seeds have shown powerful anti-viral activity, including against coxsackie virus and herpes simplex virus
10 Health Benefits of Lychees
Lychees contain an impressive array of vitamins, fiber and antioxidants. According to Lychees Online, the fruit has more vitamin C than the same amount of oranges or lemons, a significant amount of potassium and as much fiber as an apple (with the skin on).3 Why else might you want to eat lychees?4
1. Disease-Fighting Flavonoids
Flavonoids — antioxidant compounds found in certain fruits and vegetables, herbs and spices — are known for their role in helping to prevent chronic diseases like heart disease and cancer.
Lychee contains quercetin, a powerful antioxidant with anti-inflammatory properties, cancer-fighting heart-healthy kaempferol and more.
2. Antioxidant Protection
Antioxidants are nature's way of providing your cells with adequate defense against attack by reactive oxygen species (ROS), or free radicals.
If you don't have an adequate supply of antioxidants to help squelch free radicals, then you can be at risk of oxidative stress, which leads to accelerated tissue and organ damage.
Numerous studies have confirmed the benefits of antioxidants and the role they play in maintaining good health and reducing your risk of heart disease, Parkinson's, Alzheimer's, and cancer.
Antioxidants also help slow down the aging process, which can have immense effects on your skin health. Lychees are rich in antioxidant vitamin C, with more than 100 percent of the recommended daily amount of vitamin C in one cup.
3. Heart Health
The flavonoids, fiber and antioxidants in lychees may support heart health. In addition, oligonol derived from lychee fruit has been shown to increase nitric oxide levels in animal studies.5 Increasing nitric oxide in your blood may open constricted blood vessels and lower your blood pressure.
It should be noted, however, that oligonol is a mixture of antioxidants from lychee skin and other sources (such as green tea), but does not occur naturally in lychee fruit.6
4. Blood Regulation
The nutrients in lychee, including magnesium, copper, iron, vitamin C, manganese and folate, are required for blood circulation and formation.
5. Rutin
Lychees have one of the highest concentrations of polyphenols among fruits.7 Among them is rutin, a bioflavonoid known to strengthen blood vessels.
For this reason, it's often used for varicose veins and hemorrhoids, as well as bruising. In fact, a deficiency of bioflavonoids may allow blood vessels to break easier, which is why, if you bruise easily, you would likely benefit from more rutin.
6. Anti-Inflammatory Benefits
Flavanol-rich lychee fruit extract (FRLFE), which is primarily derived from lychee fruit, has potent anti-inflammatory benefits.
FRLFE has been found to suppress inflammation and tissue damage caused by high-intensity exercise training and, researchers believe, may even be used to treat inflammatory diseases.8
7. Vitamin C
One of the most prominent nutrients in lychee fruit is vitamin C. Vitamin C has numerous functions in the human body, including acting as an essential cofactor in enzymatic reactions.
In this way, it plays a role in your body's production of collagen, carnitine (which helps your body turn fat into energy), and catecholamines (hormones made by your adrenal glands), for starters.
Vitamin C is also used by your body for wound healing, repairing, and maintaining the health of your bones and teeth, and plays a role in helping your body absorb iron.
Vitamin C is considered an anti-aging vitamin and actually reversed age-related abnormalities in mice with a premature aging disorder, restoring healthy aging.9
Vitamin C even plays a role in brain health, as it is necessary to make certain neurotransmitters, including serotonin.10
It has also been found to play a role in preventing the common cold, cancer, osteoarthritis, age-related macular degeneration, asthma, and more. Vitamin C may also be useful for:11
Boosting immune system function | Improving vision in people with uveitis (inflammation of the middle part of the eye) | Allergy-related conditions, such as eczema and hay fever |
Treating sunburn | Alleviating dry mouth | Healing burns and wounds |
Decreasing blood sugar in diabetics | Fighting viral illnesses, such as mononucleosis | Maintaining healthy gums |
8. Mitochondrial Health
Lychee pulp contains large amounts of phenolic compounds and exhibits antioxidant activities. In an animal study, lychee pulp phenolics protected against stress-induced liver injury by modulating mitochondrial dysfunction.
The researchers concluded, "Thus, lychee pulp may be a functional biofactor to mitigate oxidative stress."12
9. Anti-Viral Activity
Certain proanthocyanidins in lychee seeds have shown powerful anti-viral activity, including against coxsackie virus and herpes simplex virus.13
10.More Antioxidant Power Than Vitamin C?
Additional proanthocyanidins in lychee seeds showed more potent antioxidant activity than even vitamin C,14 which suggests there's still much to learn about the health potential of this exotic fruit.
Hộp nhựa được thiết kế bởi chuỗi liên kết OTAS-Agrotrade-VIEAP theo tiêu chuẩn OTAS được các nhà nhập khẩu Châu Âu và Úc và Malaysia chấp nhận
Hộp nhựa này được thiết kế bởi Chuỗi Liên Kết OTAS-Agrotrade-VIAEP theo tiêu chuẩn OTAS nhằm giúp bảo quản hoa quả tươi được lâu hơn.
This punnet has been designed by OTAS – Agrotrade – VIAEP under OTAS standards for preserving fresh fruits.
Hạt nhựa nguyên sinh là gì
HẠT NHỰA NGUYÊN SINH là sản phẩm nhựa được sinh ra từ dầu mỏ, Các thành phần hóa học của dầu mỏ được chia tách bằng phương pháp chưng cất phân đoạn tạo ra những loại hạt nhựa có giá trị sử dụng phục vụ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng.
Hạt nhựa nguyên sinh chưa qua sử dụng thường có màu trắng tự nhiên, khi đưa vào ứng dụng người ta thường pha thêm hạt tạo màu để được các màu sắc khác nhau như: xanh, đỏ, tím, vàng…
ỨNG DỤNG
Hạt nhựa nguyên sinh thường được dùng để sản xuất các mặt hàng có giá trị cao hoặc các sản phẩm có đòi hỏi an toàn và có kỹ thuật cao như: thiết bị y tế, linh kiện máy bay, ô tô… Các sản phẩm nhựa thông thường mà chúng ta sử dụng hoặc nhìn thấy hằng ngày chủ yếu được sản xuất ra từ nhựa tái sinh.
PHÂN LOẠI
Vậy, đã bao giờ bạn tự hỏi rằng các sản phẩm chúng ta sử dụng hằng ngày được sản xuất từ những loại hạt nhựa nguyên sinh nào? Hãy cùng Nhựa Việt Nam tìm hiểu nhé:
ABS: có màu trắng tự nhiên hoặc trắng đục, Nhựa ABS cứng, rắn, nhưng không giòn,cách điện, không thấm nước, tính chất đặc trưng của ABS là khả năng chịu va đập và độ dai được ứng dụng để sản xuất Mũ bảo hiểm, thùng chứa, và một số linh kiện xe máy.
PP: là loại hạt nhựa phổ biến nhất trong đời sống hằng ngày của con người, PP có màu trắng trong suốt, tuy nhiên nhà sản xuất thường pha với các loại hạt tạo màu nhằm tạo ra sản phẩm đầy đủ màu sắc, tính bền cơ học cao (bền xé và bền kéo đứt), khá cứng vững, không mềm dẻo như PE, không bị kéo giãn dài do đó được chế tạo thành sợi.
PP không màu không mùi,không vị, không độc. Hạt nhựa PP cháy sáng với ngọn lửa màu xanh nhạt, có dòng chảy dẻo, có mùi cháy gần giống mùi cao su. PP được ứng dụng rộng rải như: sản xuất đồ chơi, thau, rổ, khay nhựa…
PA: là loại nhựa có tính kỹ thuật cao, Nhựa PA66 có độ nhầy cao, dẻo dai tốt, bôi trơn bề mặt, đặc biệt chịu mài mòn nên được ứng dụng trong y tế, linh kiện điện tư, linh kiện ô tô, xe máy, máy bay và một số ngành may mặc, gia dụng khác.
Ngoài ra trên thế giới còn có rất nhiều loại hạt nhựa có ứng dụng khác nhau như: HDPE, LDPE, POM, PS, HI, PET, PBT, PC, PVC…
Tại VIETAUS POLYMER, Hạt nhựa nguyên sinh chủ yếu được nhập khẩu từ các nước: Đài loan, Trung Quốc, Malaysia, Thái Lan, Ả rập… do đó việc lựa chọn nhà cung cấp để được tư vấn nhiệt tình đáp ứng được yêu cầu của sản phẩm, đặc biệt quan trọng là giá cả phải cạnh tranh và nguồn hàng ổn định.
Có nên đựng trái cây ở hộp nhựa pet có lỗ hay không?
Hộp nhựa trong đựng trái cây PET được thiết kế để mang đến giải pháp hiệu quả trong khâu bảo quản sản phẩm nhằm tăng thời gian sử dụng của trái cây, giữ trái cây tươi ngon lâu hơn với cái nhìn trực quan sản phẩm trái cây giúp cho sản phẩm đẹp hơn góp phần gia tăng giá trị của nông sản.
Vì hộp nhựa pet khá an toàn nên thích hợp với việc đựng hoa quả.
Hộp nhựa trong suốt đựng trái cây có lỗ là một trong những sản phẩm hộp nhựa của cty Napaco, Hộp nhựa trong đựng trái cây có lỗ là một giải pháp cho quy trình bảo quản, đóng gói và trưng bày sản phẩm trái cây nói riêng và các loại nông sản nói chung.
Những lợi ích mà hộp nhựa trong đựng trái cây có lỗ mang lại:
- Không hấp hơi hay đọng sương do hộp nhựa có nhiễu lỗ thoát khí 2 bên cạnh hông tăng quá trình lưu thông không khí với môi trường.
-Tăng thời gian bảo quản trái cây thêm khoảng 3 ngày.
-Dễ dàng đóng gói và phân phối theo trọng lượng yêu cầu, vì hộp nhựa trong đựng trái cây có lỗ của RVC có nhiều kích thước khác nhau đóng được trọng lượng khác nhau như 200g, 300g, 4000g, 500g và 1000g
-Thuận lợi cho quá trình làm thương hiệu sản phẩm, hộp nhựa trong mang tính chất marketing tốt cho sản phẩm bởi khách hàng nhìn thấy trực diện sản phẩm trái cây bên trong.
- Đáp ứng tiêu chuẩn đóng gói hàng xuất khẩu ở các nước phát triển
Vậy vì sao được tin dùng?
Vì sao nên chọn mua hộp nhựa trái cây của cty Napaco
Hộp nhựa trong đựng trái cây có lỗ của Napaco được sản xuất bằng nguyên liệu PET an toàn với sức khỏe ( vật liệu sản xuất của chai nước suối).
Trước khi sản xuất hộp nhựa pet trong, nguyên liệu màng nhựa pet được đưa đi kiểm định an toàn sức khỏe phù hợp với vật liệu dùng trong bao bì sản đóng gói thực phẩm không chứa các chất gây ảnh hưởng đến sức khỏe người dùng.
Công nghệ sản xuất hiện đại theo quy chuẩn tự động hóa cao nhất nhằm hạn chế quá trình lỗi trong sản xuất. Sản phẩm hộp nhựa trong đựng trái cây của RVC có độ đồng nhất vể chất lượng ở mức cao.
Nhờ ưu thế về công nghệ sản xuất sản phẩm hộp nhựa trong đựng trái cây của Napaco có giá thành thấp, đảm bảo ưu thế cạnh tranh cho người sử dụng.